Nhãn thông (Clairvoyance) & các điều kiện để khai mở nhãn thông (trích lược)

Mình đang soạn giáo án cho lớp, có một đoạn rất hay mình sẽ trích đăng lại từ quyển ‘Nhãn thông (Clairvoyance)’ của Charles W.Leadbeater (1854-1934), một hội viên của hội Thông Thiên Học (Theosophy). Quyển này đã được dịch sang tiếng Việt, mình để link bài gốc ở dưới nếu mọi người muốn đọc hết. Có những chỗ mình đổi từ ngữ cho dễ hiểu hơn so với văn phong cổ. Tài liệu này cũng như rất nhiều những tài liệu khác của tâm linh bí truyền khi nói tới phương pháp phát triển khả năng tâm linh, hay Rudolf Steiner viết riêng một quyển sách có tên là ‘How to know higher world' (‘Phương pháp để bước chân vào thế giới tâm linh’), có ba thứ luôn được nhắc tới và cũng là phương pháp phát triển an toàn, bền vững nhất, đó là:

‣ Phát triển đạo đức, làm trong sạch trái tim và linh hồn
‣ Thiền định
‣ Học cách tập trung và kiểm soát tâm trí

Tại sao phát triển năng lực tâm linh lại phải nhất quyết đi kèm với việc phát triển đạo đức và làm trong sạch trái tim? Mục đích của việc sử dụng năng lực tâm linh là gì? Mời mọi người đọc đoạn mình trích lược dưới đây nhé, hơi dài một chút nhưng rất đáng đọc! Đoạn này cũng nhắc tới thuật thôi miên và điều kiện cần thiết của người thực hiện.

Cũng phải nói tới một điều nữa là khoảng thời gian cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 khi mà hội Thông Thiên Học (Theosophy) và Anthroposophy (mà Steiner sáng lập) ra đời, thời kì đó phong trào Thông linh học rất phát triển. Những buổi gọi hồn, thuật thôi miên, xuất vía, những buổi biểu diễn khả năng thông linh và những phương pháp khai mở năng lực thông linh (như nhìn chăm chú vào quả cầu thủy tinh, cây nến, v..v) rất thịnh hành. Do vậy, những tài liệu như quyển này của C.W.Leadbeater, hay sách của Rudolf Steiner trước tiên là nhắm đến phong trào Thông linh học rất phổ biến khi đó và đồng thời đưa ra những phương pháp bền vững hơn. Một đoạn ngắn thôi nhưng cũng gián tiếp nói lên rằng nếu chỉ phát triển năng lực tâm linh theo bề nổi (như các phương pháp kích hoạt nhãn thông như nhìn chằm chằm vào một điểm sáng), nó sẽ không để lại hiệu quả lâu dài cho sự phát triển của linh hồn, và thậm chí còn có thể chỉ có tác dụng trong một cuộc đời chứ linh hồn không mang kết quả sang tới những cuộc đời kế tiếp.

Tuy rằng sách được viết cách đây 100 năm nhưng tất cả mọi nguyên lý từ cổ chí kim đều thống nhất và mang giá trị trường tồn. Đây cũng là điều mà khi nhìn vào tinh thần, bản chất và giáo huấn của các tôn giáo chúng ta đều có thể thấy những tư tưởng xuyên suốt dù cho cách dùng từ, khái niệm có thể khác nhau ở phương Đông so với phương Tây nhưng tất cả mọi con sông đều đổ về một bể.

✦✦✦✦
(Trích lược chương 9: Phương pháp khai mở nhãn thông, sách ‘Nhãn thông’ (Clairvoyance) của Charles W.Leadbeater)


'Một người bắt đầu tin tưởng vào giá trị thực tiễn của năng lực nhãn thông, câu hỏi đầu tiên của họ thường là: “Trong trường hợp cá nhân tôi, tôi có thể làm cách nào để khai mở quan năng mà người ta nói là còn tiềm ẩn trong mọi người?”

Có nhiều phương pháp để khai mở năng lực này, nhưng chỉ có một phương pháp khá an toàn thường được khuyến khích, chúng ta sẽ nói đến sau. Trong các nước kém phát triển trên thế giới, hiện tượng linh thị được phát sinh theo nhiều đường lối khách quan khác nhau. Dân tộc thiểu số trong vài bộ lạc ở Ấn Độ thường dùng các loại dược thảo độc hại hoặc hít khói thuốc gây mê. Một số các giáo sĩ Hồi Giáo dùng cách quay cuồng theo một điệu vũ điên loạn do sự hăng say tín ngưỡng, cho đến khi chóng mặt và hôn mê. Những người theo nghi lễ tà thuật, thực hành những cách thức gớm ghiếc như giết sinh vật để cúng tế, và các nghi thức đáng ghê tởm của tà đạo. Ở những nước văn minh, những phương pháp này không thịnh hành, tuy nhiên có một số lớn người còn theo những kỹ thuật cổ xưa, như tự thôi miên bằng cách nhìn chăm chú vào một điểm sáng, hoặc lặp đi lặp lại vài cách thức nào đó cho đến khi rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Trong khi có một trường phái khác cố gắng đạt tới các kết quả tương tự bằng cách điều hoà hơi thở theo một vài hệ phái Ấn Độ.

Người ta khuyến cáo nghiêm ngặt rằng tất cả những phương pháp đó đều không an toàn cho người bình thường, mà họ không biết rõ họ đang làm gì, họ chỉ làm thí nghiệm một cách mơ hồ trong một thế giới mà họ chưa biết. Tôi cũng không khuyến khích phương pháp cho người khác thôi miên mình để đạt được nhãn thông; không bao giờ nên thử nghiệm phương pháp này, ngoại trừ dưới những điều kiện đáng tin cậy hoàn toàn, và có sự liên hệ mật thiết giữa người thôi miên và người bị thôi miên, cùng sự trong sạch hoàn toàn trong trái tim và linh hồn, trong tư tưởng và ý hướng, điều này chỉ có thể có được nơi các bậc Thánh.

Trong số những cách thức khác, những thực nghiệm xuất thần do thôi miên là đáng chú ý nhất. Nó đưa ra những bằng chứng về sự kiện nhãn thông cho người theo thuyết hoài nghi. Tuy nhiên, cần phải có các điều kiện như đã đề cập ở trên, và điều này gần như không thể thực hiện được, tôi không bao giờ khuyến khích bất cứ ai theo đuổi phương pháp này.

Phép thôi miên dùng chữa bệnh (mà không cần đưa bệnh nhân vào trạng thái xuất thần, cố gắng để làm nhẹ bớt cơn đau, trị lành bệnh, hoặc truyền sinh lực bằng nhân điện) có chỗ đứng hoàn toàn khác. Với điều kiện rất cần thiết là chính người thực hành thôi miên phải khoẻ mạnh, có dụng ý trong sạch, được vậy sẽ không gây hại cho bệnh nhân. Trường hợp rất đặc biệt là một người có thể tình nguyện để cho người khác thôi miên trong một cuộc giải phẫu chữa bệnh. Nếu có người hỏi ý kiến tôi về vấn đề này, tôi mạnh dạn khuyến cáo họ không nên giao mình cho người khác làm thí nghiệm, trừ khi họ hoàn toàn thật hiểu mọi khía cạnh về vấn đề này; tốt nhất là họ được sự hướng dẫn bởi một bậc thầy có khả năng.

Nhưng tìm đâu được một bậc thầy có đầy đủ khả năng? Chắc chắn đó không phải là những người tự quảng cáo mình là đạo sư, dạy các bí pháp linh thiêng để kiếm tiền. Hoặc những người mở “câu lạc bộ” để dạy khai mở quan năng tâm linh, và thâu nhận đơn xin gia nhập của bất cứ người nào, càng nhiều càng tốt. Vậy thì người ta có thể tìm được việc huấn luyện thận trọng này nơi đâu?

Câu trả lời là: từ lúc bắt đầu có lịch sử thế giới, người ta luôn luôn tìm được sự huấn luyện này nơi Đại Đoàn Chưởng Giáo (*). Những vị này đến bây giờ vẫn tồn tại, và sẽ luôn luôn tồn tại để làm nền tảng cho sự tiến hoá của nhân loại, cũng như hướng dẫn và trợ giúp con người sống theo đại luật vũ trụ, đại luật này tượng trưng cho ý chí của đấng Trường Cửu. Nhưng làm cách nào để gần gũi được những vị trong Đại Đoàn Chưởng Giáo? Người chí nguyện khát khao sự hiểu biết, làm cách nào để bày tỏ lòng mong mỏi nhận được những giáo huấn?

(*) Chú thích: ‘Đại Đoàn Chưởng Giáo', tiếng Anh là ‘Planetary Hierarchy', là một hệ thống có trật tự với những vị lãnh tụ, những người khai sáng, các bậc Masters. Tư tưởng, giáo huấn của những bậc Master, những người khai sáng (‘Initiates') luôn là tài sản để lại cho nhân loại.

Chỉ có một phương pháp là “chờ đợi”, không có đặc quyền cho bất cứ ai được những vị cao cả thu nhận, nếu chính người đó chưa chuẩn bị xứng đáng làm đệ tử, con đường học hỏi ấy không phải là con đường của bậc vương giả. Trong thời đại hiện tại, cũng như trong những thời đại cổ xưa, người nào muốn thu hút sự chú ý của những vị cao cả đều phải bước vào con đường khó khăn, gian khổ, tự học hỏi để tự hiểu mình, và tự làm tất cả điều gì mà họ phải làm để phát triển. Đó không phải là con đường dễ dàng, tuy nhiên sớm hay muộn tất cả mọi người đều phải đi theo, vì đại luật của cơ chế tiến hoá sẽ từ từ đưa nhân loại đi đến mục đích mà không ai cưỡng lại nổi. (**)

(**) Chú thích: Mọi người có thể đọc thêm loạt bài của mình về ‘Con đường tiến hóa của linh hồn'.

Các Chân Sư chọn đệ tử trong số những người cố gắng bước vào đường đạo. Chỉ bằng cách tự tạo cho mình đủ phẩm chất, một người mới có thể nhận lãnh được những giáo huấn và đặt chân trên đường đạo. Không có phẩm chất ấy, bất cứ hội viên của chi bộ hay xứ bộ nào, thuộc về bí truyền hay công truyền, có thể tiến đến được mục đích. Sự lựa chọn đó tuỳ thuộc vào sự chân thành của thí sinh, chứ không phải chỉ vì họ là hội viên của Hội hay của bất cứ bộ phận nào của Hội.

Đó là cách duy nhất, an toàn tuyệt đối cho sự khai mở quan năng nhãn thông, để con người bước vào con đường tiến hoá về đạo đức và tâm linh với tất cả năng lực của mình. Ở một giai đoạn nào đó trên đường đạo, quan năng này và những quan năng cao siêu hơn sẽ bắt đầu khai mở. Có một phương pháp được hầu hết mọi tôn giáo khuyến khích, phương pháp này nếu được theo đuổi một cách cẩn trọng và tôn kính sẽ rất an toàn cho người thực hành, và sẽ đưa đến sự phát triển loại nhãn thông rất thanh khiết: đó là sự thực hành tham thiền.

Mỗi ngày, hãy chọn một thời giờ nhất định mà chúng ta có thể tin chắc là yên tịnh và không bị quấy rầy, vào ban ngày thích hợp hơn ban đêm. Trong giờ phút đó phải giữ cho cái trí được hoàn toàn tự do trong một vài phút, không nghĩ đến bất cứ chuyện gì ở thế gian. Khi đạt được điều này, hãy hướng toàn thể sức mạnh tư tưởng đến một lý tưởng tâm linh cao siêu nhất mà chúng ta hiểu được. Chúng ta sẽ thấy rằng kiểm soát được hoàn toàn tư tưởng là một điều vô cùng khó khăn, nhưng khi đã đạt được điều này sẽ có lợi ích rất lớn. Khi khả năng tập trung tư tưởng càng ngày càng mạnh hơn, chúng ta sẽ dần dần nhận thấy những thế giới mới mở rộng.

Khi sự tập luyện sơ khởi về tham thiền hoạch đắc được kết quả thoả đáng, chúng ta sẽ thấy thích thú trong việc thực tập định trí vào những công việc trong đời sống hàng ngày, cả đến những công việc nhỏ nhặt nhất. Khi viết một bức thư, chúng ta không nghĩ gì khác hơn ngoài bức thư đó cho đến khi viết xong. Nếu đọc một quyển sách, chúng ta không bao giờ để cho tư tưởng đi vơ vẩn, mà phải tập trung tâm trí vào ý tưởng của tác giả. Chúng ta phải học cách kìm giữ và kiểm soát cái trí, và phải làm chủ nó, đồng thời cũng phải kiểm soát các tình cảm thấp hèn. Chúng ta phải kiên trì cố gắng kiểm soát hoàn toàn tư tưởng, phải luôn luôn biết chắc chúng ta đang nghĩ về chuyện gì và tại sao để có thể sử dụng cái trí một cách hữu hiệu. Chúng ta phải điều khiển cái trí theo ý muốn và giữ nó thật yên tĩnh, giống như người thực tập kiếm thuật, xoay mũi kiếm về hướng nào mà họ muốn.

Khả năng nhãn thông thực sự sẽ mở ra cả một thế giới mới, một năng lực hữu dụng mới, và đó là lý do mà chúng ta cảm thấy nó có giá trị. Nhưng nên nhớ rằng, đối với một người có những bổn phận trong cuộc sống ở thế gian, điều này không có nghĩa là một ân phước hoàn toàn. Nếu nhãn quan này mở ra cho một người thấy sự buồn rầu và đau khổ, sự độc ác và tham lam của thế gian, đó là một gánh nặng triền miên đè lên họ khi phải chứng kiến nhân gian chìm trong bóng tối và sầu muộn.

Nhưng rồi cảm giác ấy sẽ qua đi, vì nhãn quan sẽ cho đệ tử cảm giác thanh thoát, nó sẽ mang lại cho linh hồn tràn ngập niềm tin vững chắc, cho thấy mọi sự việc đều cùng biểu hiện điều thiện, và không còn bóng dáng của sự hoài nghi. Họ biết được tội lỗi và đau khổ đều do họ, dù họ có nhận ra điều này hay không. Khi nhận thức được như thế, họ sẽ trợ giúp người khác có hiệu quả hơn khi họ làm việc trong bóng tối, và tùy trình độ hiểu biết, họ chia sẻ nghiệp quả nặng nề của thế gian.

Tuy vậy, một số người lầm lạc sử dụng khả năng này vào các mục đích rất hạ tiện như việc tự quảng cáo mình là “người có thần thông kinh doanh”. Không cần phải nói, cách sử dụng quan năng như thế là một sự sỉ nhục và làm giảm giá trị của nó. Điều này cho thấy họ không may mắn sở hữu quyền năng trước khi họ phát triển bản chất đạo đức vững chắc. Trong một thời gian ngắn, những người ấy sẽ nhận lãnh những nghiệp quả xấu do hành động của họ.

Đôi khi người ta phản đối rằng năng lực nhãn thông xâm phạm sự riêng tư, vì nó cho con người khả năng thấy tất cả những bí mật của người khác. Điều này cũng đúng và gợi ý rằng, nếu khả năng này có ở một người chỉ thích dùng nó trong việc giải trí mà không biết sự thực dụng của nó. Người phản đối năng lực này có lẽ muốn nói đến loại năng lực rất giới hạn của những kẻ quảng cáo kiếm tiền. Đối với người khai mở nhãn thông theo đường hướng có giáo huấn rõ rệt, và sở hữu hoàn toàn năng lực này, có ba sự kiện cơ bản được đặt ra: Thứ nhất, người sở hữu năng lực nhãn thông thật sự có trước mặt một chân trời xán lạn để khám phá, nghiên cứu, sẽ không còn chỗ cho sự ham muốn tìm hiểu những điều kín đáo nhỏ nhặt, vô vị của cá nhân người khác. Thứ nhì, nếu có xảy ra vấn đề, thường rất ít khi xảy ra, là họ thình lình thấy được vài điều nhỏ nhặt, tầm phào, không đoan chính của người khác, thì với danh dự của một người đứng đắn, họ sẽ không để ý đến sự việc ấy. Thứ ba, một vấn đề khác ít khi xảy ra hơn, là họ phải đương đầu với vài loại thần linh hạ đẳng, nhưng thường trước khi phát triển khả năng này, người đệ tử đã nhận được giáo huấn đầy đủ về sự sử dụng cũng như những giới hạn của nó.

Tóm lại, những sự hạn chế này ngăn cản họ không được tò mò, không được dùng quyền năng một cách ích kỷ, và không phô trương các hiện tượng. Có thể nói những nguyên tắc áp dụng đối với hành động và cảm giác ngay thẳng trên cõi trần cũng phải được áp dụng trên cõi trung giới và thượng giới. Dù sao đi nữa, người đệ tử cũng không bao giờ được sử dụng khả năng này để đạt được những điều hiểu biết mang lại lợi lộc trần gian, và nhất là không được làm điều mà giới tâm linh thuật gọi là “trắc nghiệm tâm linh”, cũng như không được làm bất cứ điều gì để chứng minh cho những người theo thuyết hoài nghi ở thế gian tin có sự hiện hữu của năng lực siêu nhiên.

Về vấn đề này, người ta thường hỏi: “Tại sao họ không được hành động như thế? Nếu chứng tỏ được năng lực siêu nhiên, họ sẽ dễ thuyết phục những người theo chủ nghĩa hoài nghi.” Trước hết, những người đưa ra thắc mắc như thế không thấy rõ sự kiện là, những người hiểu biết không muốn biện bác để thuyết phục, cũng như không quan tâm đến thái độ của những kẻ hoài nghi. Kế đến, theo quan niệm của những người hiểu biết, tốt hơn nên để cho những kẻ hoài nghi nhận thức dần dần những sự kiện của thiên nhiên, thay vì thình lình đưa ra những thuyết phục làm cho họ ngạc nhiên.

Một số người cảm thấy khó hiểu vì sao trong cuộc sống thực sự của người đệ tử không có chỗ cho những chuyện tán gẫu tầm phào, hay tò mò vô ích như đa số người vô tâm trên thế gian. Họ cũng nghĩ rằng dù không muốn, người có nhãn thông cũng có thể tình cờ thấy được những bí mật của người khác, như một người bất ngờ liếc thấy một câu trong bức thư của người khác để mở trên bàn. Dĩ nhiên chuyện này có thể xảy ra, nhưng đối với những người trọng danh dự, họ lập tức nhìn sang chỗ khác và coi như không thấy gì cả. Những người phản bác nên hiểu rằng không đệ tử nào có thì giờ để lo việc của người khác, trừ khi họ cần phải giúp đỡ một người nào đó trong phạm vi của họ, vì luôn luôn có rất nhiều công việc riêng sẵn sàng chờ đợi họ làm.

[Kết phần trích lược]

✦✦✦✦

Đọc thêm loạt bài 'Con đường tiến hóa của linh hồn':
https://www.facebook.com/PhuongNgo.ChannelingSpirits/posts/pfbid0yz5rYqQje29k8xQ6vmg4rkJvyjkYwCpbwALUNDyRpX8R5tK5fHKoVJgYrGHR4Lirl

Sách 'Nhãn thông' được dịch sang tiếng Việt: https://www.minhtrietmoi.org/Theosophy/nhan%20thong.htm

Previous
Previous

❗️Về những khái niệm dễ gây hiểu nhầm, hiểu sai trong các nhánh rẽ của Reiki

Next
Next

Có thể thay đổi quá khứ được không?